Lời dẫn
IQ là một sinh
viên giỏi và thông minh. Cậu luôn có điểm số cao ở hầu hết các môn học
và là người đứng đầu trong các kỳ thi. Tuy vậy tính của IQ tự cao, khó
gần. Khi ra trường IQ được nhiều công ty mời chào nhưng kết quả của các
cuộc phỏng vấn lại không khả quan. Đã bảy năm kể từ khi ra trường, IQ
vẫn chưa làm được những gì cậu mong muốn.
Trái
với IQ, thời còn đi học EQ không phải là sinh viên giỏi, gia đình đông
anh em và rất nghèo. Tuy nhiên với tính cách hòa đồng, tốt bụng hay quan
tâm giúp đỡ người khác, cậu rất được bạn bè quý mến và tin yêu. Khi ra
trường, EQ không có nhiều lời mời phỏng vấn như IQ nhưng kết quả cậu
cũng đã tìm được một công việc yêu thích. Hiện tại, với vị trí trưởng
phòng, được ban lãnh đạo công ty tin cậy, đồng nghiệp và khách hàng quý
mến, EQ đang có một tương lai sáng sủa.
Trong
cuộc sống chúng ta gặp không ít những câu chuyện như vậy. Tại sao người
ít thông minh lại thành công hơn người giỏi hơn mình? Có phải do họ may
mắn, làm việc chăm chỉ, hay họ có những năng lực đặc biệt? Hãy đi tìm
câu hỏi cho chính mình !
Chỉ số thông minh ( IQ ) và thông minh cảm xúc ( EQ )?
Bạn
tự hào về chỉ số IQ (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh) của
mình. Nó thể hiện trí thông minh “thô” của bạn, nhưng nhiều chuyên gia
cho rằng, nó chỉ là một yếu tố nhỏ tạo nên thành công.
Bắt
đầu hình thành từ năm 1912, khái niệm IQ đã “thống trị” khá lâu trong
quan niệm về thước đo phẩm chất dẫn đến thành công của con người.
IQ
theo quan niệm phổ thông, thường được mặc định song hành với khả năng
tư duy. Tuy nhiên, sau này, nhà tâm lý học Howard Garner đã mở rộng khái
niệm IQ, khi chứng minh sự tồn tại của 8 dạng thức thông minh khác nhau
và các yếu tố này đều ảnh hưởng đến thành công của một người.
Trí
thông minh (Intelligence) được đo bằng hệ số IQ – Intelligence
Quotient. IQ đo lường khả năng trí lực, năng lực học hỏi, khả năng hiểu
và xử lý tình huống, năng lực suy nghĩ logic, phản biện, sự nhạy bén
trong suy nghĩ…Trí thông minh có thể được đo tổng quát trong mọi lĩnh
vực, và được đo theo từng lĩnh vực cụ thể.
Tuy
nhiên càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người
ta thường nói: “Với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta
đề bạt bạn”. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà
có EQ cao nhất.
Bắt đầu từ năm
1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New
Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional
Intelligence, hoặc Emotional Quotient – EQ). EQ đo lường năng lực, khả
năng hay kỹ năng của một người trong cảm nhận, đánh giá, và quản lý cảm
xúc của bản thân, của người khác hay của một nhóm người.
Trong
một thời gian dài người ta dùng chỉ số IQ để tìm kiếm người tài vì tin
rằng người có IQ cao sẽ có xác suất thành công cao hơn người khác. Tuy
vậy một số nghiên cứu khoa học lại cho thấy chỉ 25% số người thành công
là có chỉ số IQ cao hơn trung bình. Nghĩa là chỉ số IQ không giải thích
được sự thành công vượt trội của 75% số người còn lại. Kết quả nghiên
cứu đã loại yếu tố về năng lực chuyên môn. Cuối cùng những người nghiên
cứu khẳng định rằng chỉ số EQ mới là yếu tố quyết định sự thành công
trong cuộc sống và công việc của mỗi chúng ta.
Năng lực cảm xúc trong môi trường làm việc ?
Trong
khi chỉ số thông minh ít khi thay đổi theo thời gian, thì chỉ số thông
minh cảm xúc có thể được “học” và thay đổi vào bất cứ giai đoạn hay môi
trường nào. Để thành công trong môi trường làm việc, ông Daniel Goleman -
người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về EQ hiện nay đã đề xuất
chúng ta phải có những năng lực xúc cảm cá nhân gồm: năng lực tự nhận
biết bản thân, năng lực tự điều chỉnh, năng lực tạo động lực; và những
năng lực thông minh xúc cảm xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người khác
và năng lực giao tiếp xã hội..
Năng lực tự
nhận biết cảm xúc bản thângiúp chúng ta hiểu rõ cảm xúc hiện tại của
mình và giúp chúng ta nhận biết vai trò quan trọng của cảm xúc đối với
kết quả công việc của mình. Biết tự đánh giá bản thân còn giúp chúng ta
hiểu điểm mạnh, điểm yếu của mình, giúp chúng ta can đảm thể hiện những
suy nghĩ chưa được chấp nhận, và dám một mình theo đuổi cái đúng. Trong
khi đó, năng lực tự điều chỉnhgiúp chúng ta kềm giữ mọi cảm xúc bốc đồng
của bản thân, giữ được sự bình tĩnh, lạc quan ngay cả trong những thử
thách khó khăn nhất.
Đối với những người có
năng lực tạo động lực, họ thường xem kết quả của công việc là thước đo
cuối cùng cho sự thành bại. Chính vì thế họ luôn cố gắng phát triển bản
thân và mong muốn vượt qua hay ít nhất đạt được những tiêu chuẩn hoàn
hảo. Những cá nhân này luôn tìm thấy mục tiêu của bản thân trong mục
tiêu của tập thể. Họ luôn chú ý đến giá trị, mục tiêu của tổ chức trước
khi ra quyết định.
Bên cạnh một số năng lực kể
trên, có những người còn có khả năng thấu cảm người khác. Họ có thể cảm
nhận, dự đoán được cảm xúc và hoàn cảnh của người khác, có khả năng bày
tỏ sự quan tâm của mình một cách chủ động đối với người khác. Hoặc cũng
có người có năng lực phát triển người khác. Họ có năng lực cảm nhận
được nhu cầu phát triển bản thân của người khác, sẵn sàng kèm cặp, hỗ
trợ cho những người đó phát triển.
Nói đến
năng lực giao tiếp xã hội của một người, chúng ta có thể kể đến năng lực
truyền đạt thông tin, năng lực quản lý xung đột, năng lực lãnh đạo hay
năng lực tạo sự thay đổi, năng lực hợp tác với người khác…
Người
có năng lực quản lý sự xung đột có khả năng “xử lý” những tình huống
căng thẳng một cách êm đẹp. Họ có khả năng thương thuyết và giải quyết
những mối bất hòa, đưa ra giải pháp để hai bên cùng thắng. Trong khi đó
người có năng lực lãnh đạo sẽ tạo cảm hứng cho mọi người làm việc, làm
cho họ tin và hướng theo một tầm nhìn, một mục tiêu chung. Dù ở vị trí
nào họ cũng sẵn sàng tiến lên để nhận lãnh trách nhiệm, họ tạo ảnh hưởng
lên người khác bằng chính những hành động của mình. Còn người có năng
lực hợp tác luôn tạo ra một môi trường làm việc vì mục đích chung, trong
đó mọi người đều có cơ hội để phát triển.
EQ
một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc
giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh
chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không
đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai
chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người
lại thiếu cả hai.
Khác với IQ đã xây dựng được
một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một
công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất
phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu
cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã
hội.
Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan
trọng hơn IQ. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất
mà có EQ cao nhất.
Ngoài ra, người ta còn dùng các chỉ số khác để đánh giá khả năng thành công của con người, đó là các chỉ số: AQ, PQ, SQ và CQ..
Chỉ số vượt khó – AQ?
Năm
1997, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Stoltz lần đầu tiên đưa ra 1 khái
niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn sách “Adversity Quotient:
Turning Obstacles into Opportunities” (AQ: Xoay chuyển trở ngại thành cơ
hội). Trong đó, ông định nghĩa, AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và
xoay sở của một người trước các thay đổi, áp lực và các tình huống khó
khăn. Tại sao một số người trở nên xuất chúng, rất thành công, trong khi
những người khác lại nản lòng, thất bại cho dù họ có thừa thông minh
hoặc tư cách tốt? Điểm khác nhau giữa họ chính là sự chênh lệch về AQ –
khả năng đương đầu và đương đầu có hiệu quả trước bất hạnh và nghịch
cảnh.
Trong cuốn sách xuất bản sau đó,
Adversity Quotient @ Work, bàn kỹ hơn về vấn đề tương tự, ông giải thích
cụ thể hơn cách thức áp dụng khái niệm AQ, để có thể mang lại lợi ích.
Paul
Sloltz đã phát triển khá nhiều ý tưởng của mình từ những nhà tâm lý học
đi trước, như Abraham Maslow, tác giả của tháp Maslow nổi tiếng; từ
Martin Seligman, tác giả của sách “Học lạc quan”, và Stephen R. Covey,
tác giả của “7 thói quen của người thành đạt“.
Nhiều
nhà tâm lý đã ủng hộ rất nhiệt tình cho thuyết AQ này. Điều này góp
phần khẳng định, việc lượng hóa những phẩm chất tâm lý bậc cao là một
điều có thề làm được như đã từng làm với trí tuệ (IQ) và cảm xúc (EQ).
Paul
Sloltz cho rằng, những người có AQ thấp thường dễ xúc động và dễ buông
xuôi trước nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong khi, những người có AQ
cao sẽ ít khi đầu hàng và dễ dàng trở thành lãnh đạo trong tương lai.
Ông
phân định ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với những khó
khăn, thử thách trong cuộc đời. Đó là: Quitter, Camper và Climber.
1.
Quitter: Là những người dễ buông xuôi. Họ dễ dàng nản chí, dễ dàng từ
bỏ việc theo đuổi 1 công việc, 1 dự định và cao hơn là 1 mục đích sống.
Và, kết quả là thường giữa đường đứt gánh, và nhận thất bại, hoặc kết
quả không như ý.
2. Camper: Là những người
chịu khó, làm việc chăm chỉ, có ý thức phấn đấu rèn luyện bản thân, và
sẽ làm nhiều thứ để đạt tới 1 mức độ nhất định nào đó trong cuộc sống.
Tuy nhiên, họ dễ hài lòng và thoả hiệp với bản thân để thấy như vậy là
đủ.
3. Climber: Là những người có sự kiên định
và hoài bão lớn. Họ luôn học hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng để
đạt tới những mức độ tốt nhất có thể trong khả năng. Họ cũng thường là
tuýp người không chấp nhận 1 tình thế sẵn có, và tìm cách xoay sở để cải
thiện nó tốt hơn.
Theo đó, ông coi chỉ số đo
khả năng vượt qua những điều kiện khó khăn là yếu tố lớn nhất trong
những phẩm chất tạo nên sự thành công cho con người.
Theo
Paul Sloltz, chỉ số AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sự sáng tạo,
năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người. Nó
cũng chính là một chỉ báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống:
Đối diện khó khăn
Xoay chuyển cục diện
Vượt lên nghịch cảnh
Tìm được lối ra
Theo
quan niệm của nhiều người, IQ và EQ là những khái niệm “fix”, có nghĩa
là phần nhiều thuộc về “thiên phú”, khó có khả năng thay đổi. Trong khi
đó, AQ là đại lượng có thể được rèn luyện để “cải thiện, nâng cấp”.
Chỉ số say mê – PQ?
Bạn
tự hào là người có chỉ số thông minh IQ cao. Nhưng theo các nhà khoa
học, nếu có chỉ số đam mê PQ (Passion Quotient) thấp, bạn sẽ khó mà
thành công. Sự đam mê là ngọn lửa thổi bùng lên lòng nhiệt huyết, khiến
mỗi chúng ta không ngừng khám phá những tiềm năng vô tận ẩn sâu trong
mỗi con người.
PQ là chỉ số chỉ sự say mê của mỗi người dành cho việc anh ta làm, gọi tắt là chỉ số say mê (PQ).
Có
người đã ví von rằng: “Chỉ số IQ giống như một đoạn mạch ADN rất vững
chắc và rất khó để cải thiện. Còn chỉ số PQ là chất lửa trong mỗi con
người, chúng ta hoàn toàn có thể điều chỉnh được ngọn lửa đó.”
Chỉ
số PQ của con người không thể đo lường một cách chính xác. PQ không thể
hiển thị dưới dạng con số hay thống kê như IQ, nó chỉ mang tính ước
đoán, hàm ý và tượng trưng.
Người có chỉ số PQ cao là một tài sản quý
Sự
say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù
hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo
như phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ –
cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của
một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là: yêu thích
công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ
việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo,
chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng
thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra
những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm
tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó khiến
họ thành công trong nghề nghiệp của mình.
Nếu
ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm
giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực,
điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền
lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô,
đã đưa tính chất “ham địa vị” như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt
tích cực.
Trong công việc, những nhân viên làm
việc với lòng say mê cao là những người được các sếp quý trọng. Ngọn
lửa say mê đến từ định hướng đúng trong công việc, chọn nghề phù hợp với
năng lực và sở trường, vào trí thông minh của mỗi người. Những người có
chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức.
Những phẩm chất thường thấy ở họ là:
– Yêu thích công việc mình làm.
–
Luôn toàn tâm toàn ý hoàn thành công việc đạt chất lượng cao. – Thất
bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí. –
Họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về
công việc ngay cả trong lúc nghỉ ngơi, nên họ thường tìm ra được những
giải pháp độc đáo và sáng tạo. – Họ luôn luôn nghĩ đến việc sẽ làm tiếp
theo và tìm cách chạy đua với thời gian.
Virender
Kapoor, tác giả quyển sách “The Greatest Secret of Success: Your
Passion Quotient” (Bí mật lớn nhất của thành công: chỉ số say mê) cho
rằng “Chất lửa trong con người, hay chính là chỉ số say mê, đã đóng góp
rất nhiều cho những thành tựu kỳ diệu của nhà khoa học thiên tài Albert
Einstein hơn cả chỉ số IQ của ông.”
SQ – Thông minh xã hội?
Rộng
hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận
thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng
xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một
khái niệm gọi là Thông minh xã hội (Social Intelligence, xác định bằng
chỉ số thông minh xã hội Social Quotient SQ).
Khái
niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức độ
hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng
người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước
mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể...
Đa
số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek
đưa ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như
chiếc chìa khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác
đều cao, cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội.
Chỉ số thông minh sáng tạo – CQ?
Bất
cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn
mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một
khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá,
những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện. Có những người
cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác
và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa
ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông
minh sáng tạo (Creative Intelligence – CQ). Xét cho cùng, chính trí
thông minh sáng tạo mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ,
mới xây dựng được một kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy
sự tiến hóa của nhân loại.
Nhà tâm lý học
người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông nghiên cứu
vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách đơn
giản: “Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm
bật ra những ý tưởng”. Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính
bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn
toàn có thể “rèn luyện” được. Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu
quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái
“loé sáng” trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra
“cái vỗ nhẹ” đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên
tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết
suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học
mang tên ‘Tư duy sáng tạo” nhằm mục đích này.
Lời kết
Đọc
những điều vừa kể chắc hẳn bạn sẽ nghĩ rằng, những năng lực trên tuy
nghe hết sức bình thường nhưng lại là những phẩm chất lý tưởng của mỗi
cá nhân trong môi trường làm việc, đó là những phẩm chất mà chúng ta
mong muốn có cho bản thân mình..cũng là chìa khóa mở cánh cửa thành công
cho mọi người.
Dù ở độ tuổi nào, mỗi người
đều có tiềm năng để phát triển những năng lực trên. Đừng quá ỷ lại vào
trí thông minh, trình độ chuyên môn mà nên tập trung nhiều hơn đến việc
phát triển chỉ số EQ, phát triển năng lực cảm xúc của bản thân trong môi
trường làm việc. Cũng như Chỉ số vượt khó ( AQ), Chỉ số say mê ( PQ),
Thông minh xã hội ( SQ), Chỉ số thông minh sáng tạo ( CQ). Từ từ chúng
ta sẽ nhận biết, quản lý bản thân tốt hơn, hiểu biết và giao tiếp với
người khác hiệu quả hơn, và chắc chắn sẽ gặt hái nhiều thành công hơn
trong công việc và cuộc sống !
(10/01/2013)
Nguồn: Quang Thanh
Đăng nhận xét