Trước xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa các nền kinh tế trên thế giới, các doanh nghiệp của mỗi quốc gia phải đương đầu với môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp, biến động liên tục và có khả năng xuất hiện nhiều biến cố bất ngờ, trong đó có cả cơ hội lẫn nguy cơ và tất cả đều có tính thách thức đối với từng doanh nghiệp, từng tổ chức trong mỗi nền kinh tế. Vì vậy, nhà quản trị các cấp luôn phải tìm giải pháp mới để giúp tổ chức thích nghi với các điều kiện của môi trường hoạt động nhằm duy trì và nâng cao các khả năng cạnh tranh để đạt được hiệu quả lâu dài là nhu cầu tất yếu khi thực hiện công việc của mình.
Khi quản trị chiến lược, nhà quản trị của các doanh nghiệp hay các tổ chức xác định được tầm quan trọng của môi trường kinh doanh hay môi trường hoạt động, nhận diện rõ các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến các tiến trình hoạt động để xác định các nhiệm vụ phải hoàn thành, các mục tiêu cần đạt được; đồng thời, quyết định lựa chọn các chiến lược đúng đắn cần tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp hay tổ chức tồn tại và phát triển có hiệu quả lâu dài.
Ngày nay, quản trị chiến lược đã trở thành công việc trọng tâm, tạo nên những bước đột phá trong quản trị kinh doanh của nhiều công ty và nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu của các nước phát triển trên thị trường thế giới và toàn cầu. Nó còn giúp các nước công nghiệp mới rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển một cách nhanh chóng; đồng thời, đây còn là công cụ giúp các doanh nghiệp của các nước này có được vị trí ngày càng vững chắc trên thị trường thế giới và toàn cầu. Mặt khác, quản trị chiến lược còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển vươn lên để có thể hội nhập nhanh chóng vào thị trường khu vực, thế giới và toàn cầu trong tương lai.
Trong thực tế, mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức, mỗi nền kinh tế đều có những đặc điểm riêng, có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định so với các đối thủ cạnh tranh của mình và chịu tác động các yếu tố của môi trường theo các chiều hướng và mức độ khác nhau… Vì vậy, tùy theo tình huống cụ thể, nhà quản trị chiến lược của từng doanh nghiệp hay từng tổ chức căn cứ vào những nét đặc thù để quản trị chiến lược một cách linh hoạt. Mọi sự cứng nhắc, máy móc trong quản trị chiến lược đều đem đến những thất bại.
1/ Quản trị chiến lược là gì?
Trong các sách nghiên cứu, các giáo trình, bài viết… lưu hành trong các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu… đề cập khá nhiều đến khái niệm chiến lược, quản trị chiến lược và đây còn là chủ đề cốt lõi trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, quản trị tổ chức, quản trị nền kinh tế của mỗi quốc gia…
Tùy theo khía cạnh quan tâm, các nhà nghiên cứu đưa ra định nghĩa riêng của mình về khái niệm “quản trị chiến lược”, một số định nghĩa tiêu biểu như:
+ Quản trị chiến lược là khoa học và nghệ thuật thiết lập, thực hiện và đánh giá các quyết định liên quan đến nhiều chức năng, cho phép tổ chức đạt được các mục tiêu đề ra.
+ Quản trị chiến lược là tập hợp các quyết định và hành vi có ảnh hưởng đến sự thành công lâu dài của tổ chức.
Ở đây, định nghĩa sau được sử dụng làm cơ sở:
+ Quản trị chiến lược là tiến trình phân tích môi trường, phát triển các định hướng chung của tổ chức, lựa chọn các chiến lược phù hợp, tổ chức thực hiện và kiểm tra các quyết định nhằm giúp tổ chức luôn thích nghi với môi trường.
Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, định nghĩa này làm rõ tiến trình quản trị chiến lược, bao gồm những giai đoạn cơ bản mà các nhà quản trị cần thực hiện khi quyết định đầu tư sản xuất – kinh doanh ở thị trường quốc gia hoặc quốc tế như:
+ Phân tích môi trường kinh doanh
- Phân tích các cơ hội và các nguy cơ hay rủi ro tiềm ẩn của môi trường bên ngoài.
- Phân tích các điểm mạnh và điểm yếu trong nội bộ tổ chức so với từng đối thủ cạnh tranh chủ yếu.
+ Hình thức chiến lược kinh doanh
- Phát triển các định hướng chung của tổ chức như: Hình thành triết lý kinh doanh, xác định các tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm xã hội trong quản trị chiến lược, xác định nhiệm vụ của tổ chức và các mục tiêu dài hạn, các mục tiêu tăng trưởng.
- Quyết định lựa chọn các chiến lược thích nghi với môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức.
+ Tổ chức thực hiện chiến lược
- Hình thành cơ cấu tổ chức thích nghi với các chiến lược đã lựa chọn.
- Phát triển các chính sách và các chương trình hành động.
- Điều hành tiến trình thực hiện chiến lược.
- Xây dựng văn hóa tổ chức bền vững.
+ Kiểm tra chiến lược
- Xác định tính thích nghi của chiến lược với môi trường.
- Giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động.
- Đo lường và đánh giá các kết quả của các quá trình.
- Thực hiện việc điều chỉnh khi cần thiết.
Mặc dù quản trị chiến lược gồm các giai đoạn cơ bản trên: nhưng trong thực tế, mỗi giai đoạn trong tiến trình không độc lập, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau hoặc thực hiện đan xen vào nhau, bất cứ sự thay đổi ở một bước cụ thể nào cũng đều ảnh hưởng đến các giai đoạn khác trong tiến trình.
Quản trị chiến lược bao gồm các quyết định và các hoạt động nhằm giúp tổ chức hình thành và duy trì các lợi ích phù hợp với môi trường kinh doanh. Vì vậy, các nhà quản trị chiến lược cần đánh giá kịp thời sự thay đổi về các điểm mạnh và điềm yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh và trong mối tương quan với những thay đổi của các cơ hội và nguy cơ của môi trường bên ngoài. Việc duy trì sự thích nghi giữa công việc kinh doanh với các điều kiện môi trường là nhu cầu cần thiết để giữ vững khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cho nên, khi cả môi trường bên trong và bên ngoài đều thay đổi, nhà quản trị cần tiến hành điều chỉnh những nội dung cần thiết trong các tiến trình hoạt động nhằm bảo đảm tính thích nghi trong quản trị chiến lược.
2/ Những yêu cầu khi thực hiện quản trị chiến lược
Quản trị chiến lược được xem là thành công khi nhà quản trị đảm bảo thực hiện các yêu cầu cơ bản sau đây:
+ Kết hợp phân tích và trực giác
Tiến trình quản trị chiến lược là một sự tiếp cận thực tế, nhà quản trị luôn phải phân tích thông tin môi trường để có thể đưa ra các quyết định quan trọng kịp thời cho doanh nghiệp. Tiến trình này đòi hỏi các nhà quản trị không những dựa vào các cơ sở khoa học, mà còn phụ thuộc vào những kinh nghiệm đã trải qua trong quá khứ, khả năng nhận thức, phán đoán và đôi khi dựa vào trực giá của cá nhân để đưa ra các quyết định có hiệu quả.
Đặc biệt, khi đưa ra quyết định đối với các tình huống bất ngờ, tình huống ít khi xảy ra hoặc chưa từng xảy ra trước đó, hoặc khi cần lựa chọn một trong nhiều giải pháp hợp lý thì yếu tố trực giác rất cần thiết.
Theo kinh nghiệm quản trị chiến lược, nhiều nhà quản trị và chủ doanh nghiệp cho rằng: để có những chiến lược sắc sảo, nhà quản trị cấp cao cần có năng khiếu vượt trội trong việc sử dụng trực giác. Về lý thuyết cũng như thực tế, nhà quản trị cần có những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng chuyên môn, kỹ năng làm việc với người khác và kỹ năng tư duy; trong đó, nhà quản trị cấp cao cần có kỹ năng tư duy vượt trội so với các nhà quản trị cấp trung gian và cấp cơ sở thì mới có khả năng thực hiện có hiệu quả các chức năng quản trị. Nếu nhà quản trị cấp cao của tổ chức có được cả giác quan thứ sáu hay độ nhạy cảm cao thì thường đưa ra các quyết định rất tốt, giúp tổ chức đạt thành tích vượt trội. Trong nhiều trường hợp, các nhà nghiên cứu, các nhà quản trị… nhận thấy rằng suy nghĩ hoặc quyết định của mình đúng nhưng không giải thích được tại sao nó đúng. Điều này chính là do khả năng tư duy hay sức tưởng tượng của con người là vô hạn, trong khi tri thức của cá nhân là có giới hạn.
Trong thực tế, nhiều tổ chức và công ty tồn tại và phát triển vượt xa các đối thủ thường xuất phát từ các quyết định dựa trên cơ sở trực giác, nhưng con số này không nhiều. Vì vậy, muốn thành công trong quản trị chiến lược, nhà quản trị các cấp cần phối hợp giữa việc phân tích và đánh giá mang tính khoa học với yếu tố trực giá hay sự nhạy cảm, khả năng phán đoán nhanh của mình để ra quyết định phù hợp với tình huống thực tế. Hai yếu tố này bổ sung cho nhau, nếu nhà quản trị chủ quan hay phiến diện trong nhận thức và trong việc ra quyết định thì không thể thành công lâu dài trong quản trị chiến lược.
+ Thích nghi với những thay đổi của môi trường
Môi trường bên trong và môi trường bên ngoài của tổ chức luôn biến động; chẳng hạn, sự biến động chính trị ảnh hưởng đến giá cả thị trường chứng khoán, văn bản pháp luật mới ban hành hoặc mới điều chỉnh có thể tạo cơ hội hay nguy cơ trong đầu tư và phát triển thị trường, khủng hoảng kinh tế làm cho giá cả hàng hóa sụt giảm và khả năng mua sắm trên thị trường kém, biến động tỉ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa nhập – xuất khẩu, công nghệ mới ra đời làm sản phẩm hiện tại lạc hậu nhanh chóng, việc ký kết các hiệp định thương mại của chính phủ quốc gia này với quốc gia khác hoặc với các tổ chức quốc tế vừa tạo ra các cơ hội để doanh nghiệp trong nước phát triển thị trường, vừa làm gia tăng đối thủ cạnh tranh…
Vì vậy, trong quá trình quản trị chiến lược, nhà quản trị cần kiểm soát chặt chẽ thông tin môi trường bên trong cũng như bên ngoài để có thể điều chỉnh các chiến lược đang thực hiện nhằm giúp tổ chức luôn thích nghi với môi trường. Đặc biệt, sự phát triển nhanh chóng công nghệ thông tin, sự toàn cầu hóa các nền kinh tế… sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mối quan hệ trong từng ngành hàng diễn ra trên thị trường địa lý hầu như không biên giới. Những khái niệm mới mà các nhà quản trị chiến lược cần biết để ra các quyết định phù hợp như: Khách hàng toàn cầu, đối thủ cạnh tranh toàn cầu, nhà cung cấp toàn cầu, nhà phân phối toàn cầu… nhằm có thể thích nghi với môi trường kinh doanh trong thế kỷ 21.
+ Phổ biến thông tin đầy đủ
Quản trị chiến lược do nhiều thành viên trong tổ chức cùng tiến hành, bao gồm cả nhà quản trị các cấp lẫn người thừa hành. Vì vậy, tùy theo loại công việc trong các quá trình, thông tin môi trường bên trong và bên ngoài phải được phổ biến đầy đủ cho mọi người nhằm bảo đảm toàn bộ tổ chức phải hoàn thành nhiệm vụ. Những thông tin cơ bản phải thông báo đến các thành viên như: triết lý kinh doanh, nhiệm vụ của tổ chức, các mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, các chiến lược và chính sách liên quan đến từng bộ phận, qui tắc đạo đức kinh doanh, đặc điểm khách hàng mục tiêu, các đối thủ cạnh tranh, đặc trưng các sản phẩm của công ty…
Khi có được thông tin đầy đủ, mọi thành viên sẽ thấy rõ nhiệm vụ của mình, biết được những điều cần thực hiện và những điều cấm kỵ, hiểu rõ những lợi ích cá nhân và tập thể khi đạt được mục tiêu… họ sẽ tự nỗ lực để hoàn thành các công việc được phân công, góp phần hoàn thành các chiến lược của tổ chức.
3/ Mục tiêu của quản trị chiến lược
Trước xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa các nền kinh tế trên thế giới, nhà quản trị của các loại hình doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác có tầm nhìn chiến lược đều thấy rõ sự cần thiết của quản trị chiến lược ở phạm vi vi mô lẫn vĩ mô, vì quản trị chiến lược có hiệu quả sẽ đạt được các mục tiêu cơ bản sau:
+ Tạo ra sự thịnh vượng liên tục cho tổ chức và xã hội.
+ Thỏa mãn tối đa các nhu cầu và mong muốn của tất cả các đối tượng có quyền lợi trong tổ chức, xã hội.
+ Tăng cường sự hợp tác giữa các tổ chức, các ngành, các quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
+ Hạn chế sự phá hủy môi trường sống của con người.
Những mục tiêu trên hoàn toàn phù hợp với mong muốn của những người tiến bộ trên hành tinh này, mong được sống trong thế giới văn minh, hòa bình; đồng thời, phù hợp với xu hướng coi trọng đạo lý trong các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, con người với xã hội và nâng cao các giá trị văn hóa trong kỷ nguyên hợp tác trên phạm vi toàn cầu.
4/ Những lợi ích của quản trị chiến lược
Trong vài thập niên gần đây, quản trị chiến lược đã được thực hiện phổ biến trong nhiều loại hình tổ chức, nhiều loại hình doanh nghiệp ở các nước phát triển, các nước công nghiệp mới và bắt đầu lan rộng sang các nước đang phát triển trên phạm vi thế giới. Lý do chủ yếu của vấn đề này là các nhà quản trị của các tổ chức, các loại hình doanh nghiệp nhận thức rõ những lợi ích của quản trị chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển lâu dài của tổ chức. Một số lợi ích cơ bản của quản trị chiến lược là:
+ Quản trị chiến lược giúp cho tổ chức định hướng rõ tầm nhìn chiến lược, nhiệm vụ và các mục tiêu lâu dài.
Thật vậy, muốn quản trị chiến lược có hiệu quả, các tổ chức phải quản lý hệ thống thông tin môi trường kinh doanh hay môi trường hoạt động. Căn cứ vào nền tảng này, các nhà quản trị có thể dự báo được các xu hướng biến động của các yếu tố môi trường và xác định nơi nào mà công ty cần đi đến trong tương lai, những gì cần phải làm để có thể đạt được những thành quả lâu dài.
Khi biết rõ chiều hướng phát triển và những mục tiêu của tổ chức, nhà quản trị các cấp và người thừa hành dễ hiểu biết lẫn nhau, cùng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ để đạt được các mong muốn. Trong thực tế, điều này đã được nhiều nhà quản trị cấp cao của các công ty ở những nước công nghiệp phát triển bàn luận trong nhiều cuộc hội thảo. Chẳng hạn, từ đầu những năm 1990, các nhà quản trị cấp cao của công ty Rockwell International đã cho rằng, quản trị chiến lược làm cho nhà quản trị các cấp và các thành viên trong công ty thông thạo công việc kinh doanh của mình trên thị trường thế giới, biết rõ mình cần đi đến đâu trong kỳ hạn dài, biết cách xác định các nhiệm vụ trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra trên thị trường toàn cầu…
+ Quản trị chiến lược giúp doanh nghiệp luôn có các chiến lược tốt, thích nghi với môi trường.
Chiến lược là những giải pháp tổng quát, mang tính định hướng, giúp tổ chức đạt được các mục tiêu dài hạn. Chiến lược được hình thành dựa vào các thông tin môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức và được lựa chọn theo một tiến trình mang tính khoa học. Đồng thời, trong quá trình quản trị chiến lược, các nhà quản trị luôn giám sát những biến động của môi trường kinh doanh và điều chỉnh các chiến lược khi cần thiết. Vì vậy, quản trị chiến lược sẽ giúp công ty luôn có chiến lược tốt, thích nghi với môi trường; điều này có tầm quan trọng đặc biệt trong bối cảnh môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp, thay đổi liên tục và cạnh tranh diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn cầu.
+ Quản trị chiến lược giúp nhà quản trị chủ động trong việc ra quyết định nhằm khai thác kịp thời các cơ hội và ngăn chặn hoặc hạn chế các rủi ro của môi trường bên ngoài, phát huy các điểm mạnh và giảm các điểm yếu trong nội bộ.
Môi trường kinh doanh luôn có những biến động bất ngờ, có thể tạo ra các cơ hội hay những nguy cơ đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Nếu quản trị chiến lược, môi trường sẽ được giám sát chặt chẽ, các nhà quản trị có khả năng đưa ra các quyết định mang tính chủ động. Chẳng hạn, khi dự báo các cơ hội có khả năng xuất hiện, nhà quản trị chuẩn bị các kế hoạch để nắm bắt khi tình huống cho phép; hoặc khi dự báo khả năng xảy ra nguy cơ, nhà quản trị có thể chủ động tác động vào môi trường để giảm bớt rủi ro hoặc chủ động để né tránh. Mặc khác, điểm mạnh và điểm yếu luôn tồn tại trong tổ chức; nếu không quản trị chiến lược, các thành viên trong công ty dễ bằng lòng với những gì hiện có, điểm mạnh sẽ nhanh chóng trở thành điểm yếu và có nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh khai thác. Ngược lại, nếu quản trị chiến lược, hệ thống thông tin của tổ chức luôn rà soát điểm mạnh, điểm yếu để nhà quản trị có cơ sở tận dụng các điểm mạnh nhằm tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời có kế hoạch làm giảm các điểm yếu để hạn chế rủi ro. Chẳng hạn, việc phân cấp, phân quyền rộng rãi trong tiến trình quản trị chiến lược sẽ tạo điều kiện phát huy khả năng sáng tạo của các thành viên trong tổ chức, hoặc chiến lược sử dụng và đãi ngộ hợp lý người lao động có cơ sở thu hút được nhân tài, thúc đẩy người lao động gắn bó lâu dài với tổ chức.
+ Quản trị chiến lược giúp doanh nghiệp phát triển văn hóa tổ chức bền vững.
Quản trị chiến lược xem đạo đức kinh doanh là yếu tố quan trọng giúp tổ chức tồn tại lâu dài; trong đó, đạo đức nghề nghiệp của các thành viên đóng vai trò nền tảng. Vì vậy, trong quá trình quản trị chiến lược, nhà quản trị các cấp – nhất là cấp cao luôn chủ động trong việc phát triển văn hóa tổ chức thích nghi với chiến lược kinh doanh và các xu hướng tiến bộ của thời đại, thúc đẩy mọi người coi trọng các mối quan hệ đối nội và đối ngoại, có sự hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau trong tiến trình thực hiện các khâu công việc.
+ Quản trị chiến lược giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn so với không quản trị chiến lược.
Các cuộc nghiên cứu ở Mỹ cho thấy rằng, các công ty thực hiện quản trị chiến lược thường đạt được lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần cao hơn các công ty không quản trị chiến lược. Đồng thời, năng suất và hiệu quả sử dụng các nguồn lực tăng cao theo thời gian. Điều này có thể chứng minh được vì trong tiến trình quản trị chiến lược, môi trường kinh doanh luôn được giám sát, nhà quản trị có điều kiện ra các quyết định hiệu quả và luôn thích nghi môi trường.
Trong phạm vi xã hội, quản trị chiến lược sẽ có những lợi ích sau:
- Phát triển khoa học – kỹ thuật và kinh tế một cách nhanh chóng trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên (con người và của cải vật chất) của quốc gia và quốc tế.
- Xử lý kịp thời các vấn đề ô nhiễm trong môi trường sống của con người.
- Bảo vệ và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Nâng cao các giá trị văn hóa trong xã hội.
5/ Các quyết định chiến lược
Quyết định chiến lược là gì?
Nếu nghiên cứu quyết định chiến lược theo quá trình hình thành, có thể định nghĩa khái niệm này như sau:
+ Quyết định chiến lược là tiến trình phân tích các cơ hội và nguy cơ của môi trường bên ngoài để lựa chọn hệ thống các giải pháp mang tính định hướng và có giá trị trong một thời kỳ cụ thể, thích nghi với các điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức.
Như vậy, muốn ra quyết định chiến lược có hiệu quả, nhà quản trị cần dựa vào hệ thống thông tin có giá trị thuộc môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức. Điều này có nghĩa là, muốn đáp ứng nhu cầu ra quyết định chiến lược, các tổ chức phải xây dựng hệ thống thông tin quản trị hữu hiệu. Hiện nay, thông tin môi trường được xem là nguồn lực không thể thiếu trong quản trị doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh đang diễn ra gay gắt trong phạm vi toàn cầu. Trong thực tế, vấn đề này hiện trở nên bức xúc đối với nhiều tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam; phần lớn các tổ chức nói chung của nước ta còn chịu ảnh hưởng của lề lối quản lý trong thời kỳ bao cấp, ảnh hưởng thói quen sử dụng kinh nghiệm trong việc ra quyết định (theo truyền thống văn hóa Phương Đông)… nên vẫn chưa thích nghi kịp thời với việc quản trị bằng hệ thống thông tin (đầy đủ, có giá trị và kịp thời). Chính vì vậy, trong thời gian vừa qua; trên các phương tiện truyền thông đại chúng của nước ta, các nhà nghiên cứu, các doanh nhân đã đề cập nhiều đến vấn đề này.
Nếu xét theo vai trò trong quản trị doanh nghiệp, có thể định nghĩa khái niệm quản trị chiến lược như sau:
+ Quyết định chiến lược là những phương tiện hiệu quả, giúp tổ chức đạt được các mục tiêu dài hạn.
Trong trường hợp này, quyết định chiến lược có thể gọi là giải pháp chiến lược hay kế hoạch chiến lược của công ty hoặc tổ chức, là sản phẩm được hình thành từ trí tuệ tập thể của nhà quản trị các cấp trong tổ chức. Quyết định chiến lược được xem là phương tiện, là hệ thống công cụ, thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau, do nhiều bộ phận của doanh nghiệp cùng thực hiện nhằm giúp tổ chức hoàn thành nhiệm vụ và đạt được các mục tiêu mong muốn. Chẳng hạn, chiến lược phát triển sản phẩm mới, chiến lược phát triển thị trường, chiến lược đa dạng hóa nhãn hiệu hàng hóa, chiến lược hội nhập hàng dọc… Nhiều tổ chức có thể đặt ra các mục tiêu rất ấn tượng, nhưng nếu thiếu công cụ hay phương tiện thực hiện thì họ khó có thể đạt được các mục tiêu đề ra.
Ai là người ra các quyết định chiến lược?
Trong thực tế, các quyết định chiến lược thường là sản phẩm của trí tuệ tập thể các thành viên chủ chốt trong tổ chức, đặc biệt là của các nhà quản trị cấp cao, cấp bộ phận chức năng (marketing, tài chính, nhân sự, kỹ thuật – sản xuất, mua hàng, thông tin…) nhưng người chịu trách nhiệm cuối cùng là người đứng đầu tổ chức (CEO). Tùy theo loại tổ chức, loại công ty đa ngành hay đơn ngành… và tùy theo việc phân cấp – phân quyền trong cơ cấu tổ chức, người đứng đầu sẽ có tên gọi theo chức danh phù hợp, ví dụ: Tổng giám đốc, Giám đốc điều hành, Giám đốc chi nhánh….
Ý tưởng ban đầu của các quyết định chiến lược có thể hình thành theo nhiều cách; chẳng hạn, sau khi tham dự một cuộc hội nghị liên quan đến một loại sản phẩm mới hay một qui trình sản xuất mới, một nhân viên thuộc bộ phận nghiên cứu phát triển của công ty đề xuất ý tưởng với người quản lý trực tiếp, người quản lý sẽ trình bày ý tưởng lên giám đốc. Trong nhiều trường hợp, ý tưởng sản phẩm mới có thể được đưa ra thảo luận với các nhà quản trị marketing, sản xuất, tài chính… nhằm làm cho ý tưởng rõ ràng và cụ thể; sau cùng, ý tưởng sẽ được trình lên các nhà quản trị cấp cao bằng văn bản chính thức và người đứng đầu tổ chức sẽ quyết định chấp nhận hay phản đối ý tưởng. Như vậy, theo khía cạnh hẹp, người ra quyết định chiến lược là người đứng đầu tổ chức, vì họ có trách nhiệm quyết định lựa chọn chiến lược của công ty. Nhưng xét trên khía cạnh rộng hơn; hầu hết các quyết định chiến lược là kết quả của nhiều người, liên quan đến nhiều quyết định; nhà quản trị cấp cao chỉ là người có trách nhiệm chủ yếu trong việc ra quyết định cuối cùng, quyết định của họ là kết quả có được từ những ý tưởng, từ tính sáng tạo, từ thông tin môi trường và sự phân tích của nhiều người có liên quan.
Quyết định chiến lược liên quan đến sự tồn tại lâu dài của tổ chức, gắn liền với quyền lợi của tất cả các thành viên và những người có quyền lợi khác; vì vậy, việc đề bạt nhân sự vào các chức danh quản trị cấp cao, cấp bộ phận chức năng thường được Hội đồng Quản trị quan tâm xem xét và đánh giá một cách cẩn thận cả hai tiêu chuẩn đức và tài, bao gồm các kỹ năng cơ bản: kỹ thuật chuyên môn, làm việc với người khác, tư duy và đạo đức nghề nghiệp. Riêng đối với các nhà quản trị cấp cao, bên cạnh hai tiêu chuẩn cơ bản trên, họ còn cần có độ nhạy bén cao để có phản ứng linh hoạt với môi trường.
Ngày nay, văn hóa tổ chức và đạo đức kinh doanh được đề cao trong các doanh nghiệp có quản trị chiến lược; vì vậy, người ra quyết định chiến lược phải là những người có phẩm chất tốt, có khả năng lãnh đạo hữu hiệu, được xem như tấm gương sáng để cấp dưới noi theo. Mọi sự tùy tiện trong đề bạt nhân sự cấp cao đều làm cho tổ chức gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh cũng như trong các lĩnh vực hoạt động khác.
Những đặc điểm của quyết định chiến lược.
+ Quyết định chiến lược thường được xác định phù hợp với qui mô các nguồn lực của tổ chức như: Nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực vô hình.
+ Quyết định chiến lược có giá trị trong một kỳ hạn dài, tùy theo tình huống thực tế, có thể vài năm đến hơn 10 năm.
+ Quyết định chiến lược định hướng tương lai cho nhiều bộ phận của tổ chức trong kỳ hạn dài.
+ Quyết định chiến lược cần phải có sự cam kết giữa các thành viên có trách nhiệm trong quá trình hình thành và thực hiện.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – SCDRC
Nguồn tham khảo: Phạm Thị Thu Phương – Quản trị chiến lược trong nền kinh tế toàn cầu – NXB KHKT 2007
Menu:
Đăng nhận xét